Tác
giả: Lê Văn Thự
Ông Lê Văn Thự
là Trung tá - Thuyền trưởng tàu HQ-16 là chiếc tàu trực tiếp tham gia trận chiến
ngày 19/1/1974. Năm 2004, ông viết bài “Sự thật về Hải chiến Hoàng Sa” nhằm
minh bạch hoá một số thông tin do ông Hà Văn Ngạc, người chỉ huy trận chiến (tàu
HQ-5) hoặc ông trung tá Vũ Hữu San (Chỉ huy tàu HQ-4) đưa ra mà ông Lê Văn Thự
cho rằng “thiếu thành thật hay nói vu vơ phô trương
nhiều hơn những gì cần nói”. Củ Hành xin trích đăng lại một số đoạn quan trọng
trong bài viết của ông Lê Văn Thự và giới thiệu với các bạn. Để hiểu rõ hơn về vấn đề, các bạn cố gắng đọc hết phần trích mặc dù khá dài. Về phần bình luận
trận chiến này, Củ Hành sẽ thực hiện ở một bài viết khác:
Ngày 15 tháng 1 năm 1974 tàu tôi,
HQ-16, được lệnh ra công tác đảo Hoàng Sa, chở theo một cố vấn Mỹ và một Thiếu
tá bộ binh thuộc Quân đoàn 1 (mà nay tôi không còn nhớ tên).
Tàu khởi hành tối ngày 15 tháng 1 năm
1974 và đến Hoàng Sa sáng 16 tháng 1 năm 1974. Khi đến nơi, Địa Phương Quân
trên đảo thấy tàu đã lái xuồng ra đón viên Thiếu tá Bộ binh lên đảo. Trong khi
chờ đợi đưa Thiếu tá Bộ binh về lại Đà Nẵng, tôi vận chuyển tàu rời đảo Hoàng
Sa ra biển, thả trôi tàu gần đảo Quang Hòa. Tôi lấy ống nhòm nhìn lên các đảo
chung quanh để ngắm nhìn phong cảnh và tiêu khiển thì giờ.
Khi nhìn lên đảo Quang Hòa thì thấy có
một dãy nhà sườn gỗ còn đang xây cất dở dang, chỉ có sàn nhà, chưa có mái. Tôi
thấy lạ, liền gọi máy về Tư Lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải (BTL/HQ/VIZH) hỏi
thì nơi đây hỏi lại tôi là có biết người nào trên đó không? Tôi trả lời chỉ
thấy bốn, năm người di chuyển tới lui nơi dãy nhà đang xây cất chứ không biết
là ai. Họ ăn mặc thường dân, có người ở trần, nhưng có nhà xây cất thì chắc là
người ngoại quốc mà không ai khác hơn là Trung Cộng, vì cách đảo Quang Hòa
chừng 20 hải lý về phía đông bắc có căn cứ của Trung Cộng, cũng nằm trong quần
đảo Hoàng Sa.
HQ-16 vẫn thả trôi tàu để chờ Thiếu tá
Bộ binh và chờ lệnh từ Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải.
Trưa ngày 16 tháng 1 năm 1974 một chiến
hạm Trung Cộng xuất hiện trong vùng.
Tối ngày 17 tháng 1 năm 1974 Bộ Tư Lệnh
Hải Quân gởi ra một toán người nhái do HQ-4 chở ra. Toán người nhái này rời
HQ-4 bằng xuồng cao su để lên HQ-16.
Sáng ngày 18 tháng 1 năm 1974 HQ-5 và
HQ-10 có mặt ở khu vực Hoàng Sa. Đại tá Hải quân Hà Văn Ngạc ở trên HQ-5 là
người chỉ huy cuộc chiến.
HQ-5 do Trung tá Phạm Trọng Quỳnh (khoá
11) chỉ huy.
HQ-16 do tôi, Trung tá Lê văn Thự (khoá
10) chỉ huy.
HQ-4 do Trung tá Vũ Hữu San (khoá 11)
chỉ huy.
HQ-10 do Thiếu tá Ngụy Văn Thà (khoá
12) chỉ huy.
Khoảng 10 giờ sáng ngày 18 tháng 1 năm
1974 Đại tá Hà Văn Ngạc ra lệnh cho tôi đưa viên cố vấn Mỹ lên đảo Hoàng Sa,
sau đó cho toán người nhái đổ bộ lên đảo Quang Hòa và một toán của HQ-16 lên
giữ đảo Vĩnh Lạc.
Sau khi đưa viên cố vấn Mỹ lên đảo
Hoàng Sa, tôi vận chuyển HQ-16 bên trong lòng chảo để đến gần đảo Quang Hòa đổ
bộ toán người nhái lên đảo thì một tàu Trung Cộng xuất hiện, cản trước mũi,
không cho tàu tôi tiến gần đến đảo.
Tôi phải ngưng máy, vận chuyển để tránh
đụng tàu. Nhưng cả hai tàu cũng cọ vào nhau làm dẹp một số trụ căng dây an toàn
chung quanh tàu Trung Cộng và làm rách bè nổi của tàu Trung Cộng. Nhờ xáp lại
gần, tôi thấy tàu Trung Cộng số hiệu 271, dài chừng 70 mét, có súng tương đương
với súng 76.2 ly, 40 ly, 20 ly và đại liên 12.7 của tàu tôi. Tàu Trung Cộng nhỏ
hơn tàu tôi nhưng vận chuyển nhanh nhẹn hơn.
Tôi báo cáo với Đại tá Ngạc những gì
xảy ra. Sau đó tôi lái tàu ra khỏi lòng chảo và đổ bộ toán người nhái vào mặt
ngoài biển (mặt nam) của đảo Quang Hòa vào chiều ngày 18 tháng 1 năm 1974.
HQ-16 chỉ ở cách xa bờ một, hai hải lý
rồi người nhái thả xuồng cao su có trang bị máy mà chạy vào bờ chứ HQ-16 không
thể vào sát bờ được vì đá ngầm và san hô. Toán người nhái rời tàu chừng non một
tiếng thì gọi máy báo cáo là ở trong bờ bắn ra. Tôi hỏi người liên lạc máy là
có thấy người ở trên bờ không và các anh đã lên được bờ chưa? Họ trả lời là
đang lội nước ngang ống chân, còn vài chục thước nữa mới tới bờ. Họ cũng cho
biết là không thấy người trên bờ.
Vài phút sau thì nghe báo cáo là một
Thiếu úy người nhái bị bắn chết. Họ xin rút lui vì không thể vào bờ an toàn
được. Tôi báo cáo với Đại tá Ngạc và xin cho người nhái rút lui. Toán người nhái
đã trở về lại HQ-16.
Chiều ngày 18 tháng 1 năm 1974, khoảng
6 giờ, Đại tá Ngạc gọi máy cho tôi và ra lệnh cho tôi chỉ huy HQ-10, bằng mọi
giá phải đổ bộ cho được toán người nhái lên đảo Quang Hòa. Sau khi đại tá Ngạc
ra lệnh này xong, thì từ đó về sau tôi không còn nghe lệnh lạc gì thêm từ Đại
tá Ngạc nữa.
Đến tối ngày 18 tháng 1 năm 1974 máy
liên lạc âm thoại giai tần đơn bị Trung Cộng phá rối tần số, không liên lạc
được. Tôi không thể gọi Đại tá Ngạc, HQ-4 hay bộ tư lệnh Hải Quân Vùng I Duyên
Hải. Tôi chỉ liên lạc được với HQ-10 bằng máy PRC-45 là loại máy truyền tin
xách tay, chỉ liên lạc được trong vòng 10 hải lý.
Sau khi nhận lệnh, tôi nghĩ chỉ còn
cách đổ bộ toán người nhái vào ban đêm mới may ra lên được đảo, nhưng chưa chắc
toán người nhái đã vào trót lọt được vì có thể tàu Trung Cộng theo dõi và liên
lạc chỉ điểm cho người của họ trên đảo canh chừng để bắn khi người nhái vào bờ.
Ngoài ra thức ăn, nước uống không có, làm sao toán người nhái có thể hoạt động
lâu hơn một ngày được, và ít nhất cũng phải có một tiểu đội hay trung đội Thủy
Quân Lục Chiến đổ bộ gần bờ yểm trợ cho toán người nhái khi họ rút lui nếu bị
phát hiện hay khi gặp lực lượng địch mạnh hơn. Vì thế, muốn thi hành lệnh của
Đại tá Ngạc, tôi nghĩ chỉ còn cách là phải tiêu diệt tàu Trung Cộng trước rồi
mới tính chuyện đổ bộ người nhái lên đảo sau.
Lúc này phía Trung Cộng xuất hiện thêm
hai chiếc tàu nữa cùng loại với chiếc đã có trước.
Tôi gọi Thiếu tá Thà HQ-10 và nói ý
định của tôi: Đêm nay HQ-16 và HQ-10 ra thật xa đảo, làm tối chiến hạm (không
cho ánh sáng lọt ra ngoài) để tàu Trung Cộng không biết chúng tôi ở đâu. Sáng
mai (19 tháng 1 năm 1974) sẽ tiến vào lòng chảo. HQ-16 vào cái “pass” gần đảo
Hoàng Sa, HQ-10 vào cái “pass” gần đảo Quang Hòa.
Tôi cũng nói với Thiếu tá Thà là anh
cũng như tôi, phải cố gắng hết sức mình. Nếu một trong hai đứa mà loạng quạng,
chỉ còn lại một, thì bọn chúng (ba chiếc tàu Trung Cộng) xúm lại, mình không
thể nào chống nổi.
Đêm hôm đó (18 tháng 1 năm 1974) khoảng
nửa đêm, tôi tập họp thủy thủ đoàn HQ-16 để thông báo ngày mai sẽ tiến vào đánh
tàu Trung Cộng. Tôi cũng nói với thủy thủ đoàn là tất cả mọi người phải can
đảm, cố gắng hết sức mình, ai làm phần việc của mình cũng phải nhanh nhẹn,
chính xác mới mong thắng và còn sống. Nhất là các ổ súng và toán phòng tai phải
lo chuẩn bị trước, xem xét lại súng ống, đạn nước phải đem từ hầm đạn lên để
sẵn ở các ụ súng, ống nước cứu hoả phải trải sẵn ra. Máy bơm nước phải sẵn
sàng.
Sáng ngày 19 tháng 1 năm 1974 HQ-16 và
HQ-10 tiến vào lòng chảo như dự định.
Tôi gọi máy cho Thiếu tá Thà và nói là
nếu chừng nào thấy tôi khai hỏa là phải khai hỏa theo liền.
Khi HQ-16 và HQ-10 qua khỏi hai cái
“pass” và vừa tầm súng, tôi quay ngang tàu HQ-16 đưa phía hữu hạm của HQ-16
hướng về ba tàu Trung Cộng. Mục đính của tôi là để tận dụng tất cả súng từ mũi
ra sau lái. Nếu hướng mũi tàu về phía tàu Trung Cộng thì chỉ sử dụng được hỏa
lực ở phía trước mũi thôi.Với lợi thế sử dụng tối đa hỏa lực nhưng cũng có cái
bất lợi là hứng đạn của địch nhiều hơn. Nhưng vì tôi đánh phủ đầu tàu Trung
Cộng nên phải sử dụng tối đa hỏa lực. So với tàu Trung Cộng, tàu tôi có đủ loại
súng tàu Trung Cộng có, ngoài ra còn có thêm khẩu 127 ly mà tàu Trung Cộng
không có. HQ-10 chỉ có hỏa lực ngang bằng tàu Trung Cộng.
Khi đang tiến vào lòng chảo, tôi đã
mừng thầm khi thấy ba tàu Trung Cộng đều ở trong lòng chảo, tức là những mục
tiêu tốt cho HQ-16 và HQ-10 tác xạ. Nếu chúng ở rải rác, chiếc trong chiếc
ngoài lòng chảo thì tôi cũng chưa biết tính sao vì tàu Trung Cộng tuy nhỏ nhưng
linh động hơn, nếu chúng ra ngoài biển thì khó bắn trúng hơn vì nó nhỏ và chạy
nhanh, còn tàu tôi lại là mục tiêu tốt cho tàu Trung Cộng vì to con nên nặng
nề, chậm chạp nên dễ lãnh đạn hơn. Nhưng nay thì cả ba tàu địch bị vây trong
vòng chảo vì hai cái “pass” đã bị HQ-16 và HQ-10 chặn rồi.
Khi đã ở đúng vị trí và vị thế dự định
(xin xem hình 2), HQ-16 cách HQ-10 chừng một hải lý, hai tàu HQ-16 và HQ-10
cách ba tàu Trung Cộng từ 3 đến 4 hải lý, tôi ra lênh lần chót: các ổ súng phải
luôn luôn theo dõi mục tiêu, mục tiêu nào thuận lợi thì bắn mục tiêu đó. Sau
khi hỏi tất cả các ổ súng đã sẵn sàng chưa, tôi ra lệnh khai hỏa.
HQ-16 và HQ-10 đứng yên một chỗ còn ba
tàu Trung Cộng di chuyển loanh quanh sát vòng cung lòng chảo gần đảo Duy Mộng
và bắn trả chúng tôi.
Tôi hy vọng trong 5,10 phút là triệt hạ
được tàu Trung Cộng vì khai hỏa trước và sử dụng tối đa hỏa lực trong khi tàu
Trung Cộng bị tấn công bất ngờ vì ngày hôm trước, tàu tôi bị họ chặn, tôi bỏ đi
mà không có gì xảy ra nên họ không ngờ rằng tôi sẽ tấn công họ.
Mười phút trôi qua mà chưa thấy tàu
Trung Cộng hề hấn gì, tôi bắt đầu sốt ruột, trong khi đó tôi nghe tiếng lách
tách, lép bép trên trời như tiếng pháo bông, giữa tàu tôi và HQ-10 và về phía
HQ-10 nhiều hơn. Tôi nghĩ chắc là đạn thời chỉnh tức là đạn tự động nổ mà không
cần chạm mục tiêu. Trận chiến vẫn tiếp tục. Chừng khoảng phút thứ 20 hay 30,
tôi thấy một tàu Trung Cộng bốc khói, một tàu khác có thể bị trúng đạn làm hư
hệ thống tai lái nên tàu cứ xoay quanh như gà trống chạy lòng vòng trước khi
đạp mái.
Tiếp đến HQ-10 báo cáo Hạm trưởng bị
thương. Tôi ra lệnh Hạm phó lên thay quyền chỉ huy, đồng thời đặt ống nhòm nhìn
sang HQ-10 tôi thấy một ngọn lửa nhỏ cháy ở đài chỉ huy có thể dập tắt được
bằng bình CO2 mà sao không ai làm. Quan sát phía sau lái HQ-10 tôi thấy 4, 5
cái đầu nhấp nhô trên mặt biển. Tôi không biết chuyện gì xảy ra trên HQ-10 vì
không nghe báo cáo gì thêm. Tôi đoán chừng vì Hạm trưởng bị thương nặng nên
HQ-10 như rắn mất đầu. Một số nhỏ nhát gan sợ tàu cháy hay trúng đạn nổ nên đã
nhảy xuống biển. Nhưng HQ-10 vẫn nổi bình thường, thăng bằng, không nghiêng một
chút nào cả.
Sau đó hầm máy hữu HQ-16 báo cáo trúng
đạn ở lườn tàu dưới mặt nước. Nước tràn vào tàu.Trung sĩ điện khí Xuân bị
thương. Nhân viên cứu hỏa tìm cách bít lỗ thủng. Chừng vài phút sau, tàu bắt
đầu nghiêng. Hầm máy báo cáo lỗ thủng bít không được vì nước vào quá mạnh, chỗ
thủng nằm trong kẹt không có chỗ cho nhân viên cứu hỏa xử dụng đà chống để chặn
tấm bố và tấm gỗ bít lỗ thủng. Nước ngập đến đầu gối. Tôi ra lệnh nếu không bít
được lỗ thủng thì đóng nắp hầm máy lại đừng cho nước chảy ra khỏi hầm máy. (Tôi
nhớ hầm máy hữu trúng đạn mà trong bài viết của ông Dân thì lại viết là hầm máy
tả !).
Tàu chỉ còn một máy tả và một máy điện,
phòng vô tuyến liên lạc truyền tin bị gián đoạn vì mất điện. Nhận thấy tình thế
không thể tiếp tục chiến đấu được nữa, tôi vận chuyển tàu quay trở ra theo cái
“pass” đẻ rời lòng chảo.
Tàu mỗi lúc một nghiêng thêm (trên 10°)
và chỉ còn một máy nên vận chuyển rất khó khăn. Hầm máy hữu báo cáo nhân viên
phải rời hầm máy vì tàu sắp chìm.
Thấy độ nghiêng của tàu đến mức gần hết
độ an toàn, có thể tàu sẽ lật, nên tôi ra lệnh: toàn thể nhân viên vào nhiệm sở
đào thoát vì sợ họ không còn thì giờ đào thoát kịp. Ra lệnh xong, tôi nắm lấy
tay lái tiếp tục lái thay cho nhân viên ra nhiệm sở.
Trong khi tôi đang lái thì Đại úy Hiệp,
cơ khí trưởng, chạy lên đài chỉ huy, nói với tôi: “Vì sao hạm trưởng cho nhiệm
sở đào thoát? Tôi đang ráng làm cân bằng tàu”. Tôi nói là tàu mỗi lúc một
nghiêng thêm, không biết sẽ lật chìm lúc nào nên phải chuẩn bị đào thoát.
Lúc này tàu nghiêng đã đến độ bão hòa
(không nghiêng thêm nữa) vì nước đã vào đầy hầm máy. Tôi cho giải tán nhiệm sở
đào thoát và vào lại nhiệm sở tác chiến. Lúc này ở đài chỉ huy có Trung úy Đoàn
Viết Ất, tôi nói với Trung úy Ất: “Tàu nghiêng như thế này, khó mà lái ra biển
an toàn được, chắc tôi phải ủi tàu vào đảo khí tượng (đảo Hoàng Sa) để cố thủ
và chờ HQ-4, HQ-5 tiếp viện”.
Trung úy Ất nói với tôi: “Xin Hạm
trưởng đừng ủi tàu vào đảo khí tượng. Mình sẽ bị Trung Cộng bắt làm tù binh.
Làm tù binh Trung Cộng thì kể như chết rục xương trong tù, không còn thấy cha
mẹ, vợ con, quê hương xứ sở. Xin Hạm trưởng cứ lái ra biển. Tàu có chìm thì đào
thoát vẫn còn cơ may sống sót. Nếu chết thì chết trên biển vẫn sướng hơn”.
Bây giờ viết lại câu nói này của Trung
úy Ất tôi vẫn còn xúc động đến chảy nước mắt. Nghe Trung úy Ất nói, tôi suy
nghĩ thêm: Nếu tôi cứ ủi vào đảo khí tượng thì cũng không thể nào ủi sát vào bờ
được vì gần bờ đá ngầm rất nhiều. Nếu ủi, tàu sẽ mắc cạn, lườn tàu sẽ bị đá
ngầm rạch nát, nước sẽ vào thêm, tàu sẽ hoàn toàn tê liệt mà thủy thủ đoàn cũng
không thể nào lên đảo được. Do đó tôi tiếp tục lái tàu ra khỏi “pass” đồng thời
ra lệnh nhân viên hướng súng về đằng sau và về phía quần đảo Hoàng Sa canh
chừng tàu Trung Cộng truy kích theo.
Khi rời Hoàng Sa, tôi hết sức ân hận đã
bỏ lại trên đảo một toán nhân viên 8 người do Trung úy Liêm chỉ huy khi có lệnh
đưa nhân viên lên giữ đảo. Trung uý Liêm và toán nhân viên sau đó đã mạo hiểm
vượt biển bằng bè vì không muốn Trung Cộng bắt làm tù binh. Sau hơn mười ngày
lênh đênh trên biển, bè trôi về tận ngoài khơi Qui Nhơn, được ngư phủ cứu và
đưa vào bệnh viện Qui Nhơn cấp cứu. Họ vượt biển mà không chuẩn bị thức ăn nước
uống nên Hạ sĩ quản kho Nguyễn Văn Duyên đã chết vì kiệt sức khi đưa vào Qui
Nhơn.
Ra khỏi “pass” tôi hướng tàu về Đà
Nẵng, lúc này khoảng 5 - 6 giờ chiều ngày 19 tháng 1 năm 1974. Tàu chỉ còn một
máy và nghiêng nên chạy chậm. Khi trời bắt đầu tối, tàu cách Hoàng Sa chừng 15
hải lý. Lúc này tôi mới thở ra nhẹ nhõm vì chắc tàu Trung Cộng cũng bị thương
tích cả người lẫn tàu nên không truy kích tàu tôi.
Bây giờ mối lo khác lại đến với tôi là
tàu có thể lật chìm bất cứ lúc nào nếu có sóng chếch xuôi rất dễ làm tàu lật.
Tôi cho nhân viên chuẩn bị các bè nổi, xem xét lại cách xử dụng để khi hữu sự
thì làm cho nhanh chứ khi tàu lật thì không có thì giờ mà mò mẫm.
Lúc này hệ thống truyền tin vừa được
sửa chữa xong. Nhân viên vô tuyến báo cáo tình trạng chiến hạm về Bộ Tư lệnh
Hải Quân Vùng I Duyên Hải, nhưng không thấy HQ-4 và HQ-5 lên tiếng.
Một tin làm bàng hoàng mọi người trên
chiến hạm là Trung sĩ Điện khí Xuân trút hơi thở cuối cùng vì vết thương quá
nặng mà không được săn sóc đúng mức.
Đại úy Hiệp mang họa đồ chiến hạm các
khoang hầm trên tàu lên đài chỉ huy cho tôi biết đã làm cân bằng tàu bằng cách
bơm nước và dầu từ hầm này sang hầm khác và dồn về phía tả hạm, nhưng tàu cũng
không bớt nghiêng bao nhiêu. Đại úy Hiệp nói: “Bây giờ chỉ còn cách bơm xả nước
ngọt và dầu ra biển may ra mới làm tàu bớt nghiêng”. Xả nước ngọt và dầu ra
biển thì tôi rất ngại mà cũng không chắc là khi xả xong tình trạng có khá hơn
không hay lại tệ hơn vì phải biết trọng tâm con tàu trước và sau khi xả nằm ở
đâu rồi mới dám làm.
Học môn lý thuyết thuyền bè trong
trường Hải Quân nhưng ra trường lâu ngày và gặp lúc hữu sự, lại không còn nhớ
cách tính trọng tâm con tàu nên tôi không dám bảo Đại úy Hiệp làm và giữ nguyên
tình trạng như vậy mà chạy về Đà Nẵng. Cũng may nhờ biển rất êm nên không có gì
xảy ra.
Sáng 20 tháng 1 năm 1974, khoảng 7 - 8
giờ, tàu vào vịnh Tiên Sa Đà Nẵng nhưng tôi không vận chuyển cặp cầu được. Bộ
Tư Lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải phải xin tàu dòng từ Ty Thương Cảng Đà Nẵng,
kẹp ngang hông HQ-16 mà cặp cầu quân cảng Đà Nẵng.
Cặp cầu xong, Thủy xưởng Đà Nẵng sang
bơm dầu, nước ngọt ra, làm nhẹ tàu cho tàu nổi lên rồi tìm cách bít tạm lỗ
thủng dưới nước (do người nhái lặn xuống nước mà bít, tôi nhớ như vậy không
biết có đúng không?). Sau đó bơm nước ngập hầm máy ra và hàn lại lỗ thủng ở hầm
máy.
Ngày hôm sau, Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng
I Duyên Hải xin toán tháo gỡ đạn dược từ Quân đoàn I sang để tháo gỡ viên đạn
còn nằm lại trên tàu. Viên đạn được bắn vòng cầu, rơi xuống nước gần HQ-16, do
tốc độ của viên đạn nên khi xuống nước gặp sức cản của nước, viên đạn không đi
thẳng xuống nước mà bị lệch hướng rồi đâm vào lườn tàu HQ-16 dưới mặt nước.
Viên đạn vẫn còn tốc độ di chuyển, xướt qua một góc máy điện, xuyên đứt tay
Trung sĩ điện khí Xuân kế đó rồi chui vào kho điện khí ở một góc hầm máy và nằm
ở đó. May là viên đạn không nổ, chứ nổ thì HQ-16 chìm tại chỗ!
Lấy được viên đạn ra, toán tháo gỡ đạn
dược ngạc nhiên cho biết rằng viên đạn “made in USA” và cỡ 127 ly. Sau này truy
ra mới biết là đạn do HQ-5 bắn.
Sau khi sửa chữa xong, sơn phết lại,
làm sạch sẽ, chiến hạm HQ-16 được lệnh về Sài Gòn làm lễ tiếp đón chiến hạm trở
về từ Hoàng Sa. Phần thượng tầng kiến trúc của chiến hạm bị lỗ chỗ các lỗ thủng
do đạn 40 ly và 20 ly bắn vào vẫn để y nguyên, mục đích cho dân chúng Sài Gòn
ai tò mò muốn xem chiến hạm dự trận Hoàng Sa về ra sao, khi lên tàu xem sẽ thấy
dấu tích còn để lại trên tàu. Tàu cặp cầu B ở bến Bạch Đằng.
Trong buổi lễ tiếp đón, tôi cùng 4 - 5
nhân viên được Tư Lệnh Hải quân gắn huy chương. Sau buổi lễ dân Sài Gòn được
lên xem tàu.Và phóng viên BBC là ông Tôn Thất Kỳ phỏng vấn tôi. Ông hỏi tôi có
thấy máy bay phản lực Trung Cộng dự chiến trong trận Hoàng Sa không? Tôi trả
lời là tôi không thấy.
Ngày hôm sau, Khối Chiến Tranh Chính
Trị Bộ Tư Lệnh Hải Quân (lúc đó Đại tá Trần Văn Triết làm trưởng khối thì
phải), phái một Thiếu úy hay Trung úy (mà tôi không nhớ tên hay cấp bậc), xuống
HQ-16. Anh ta nói với tôi “Tại sao Hạm trưởng trả lời phỏng vấn đài BBC là
không thấy phản lực cơ Trung Cộng?”
Tôi trả lời vị sĩ quan đó: “Anh về nói
lại trên Bộ Tư Lệnh là tôi không thấy nên tôi trả lời không có. Nếu Bộ Tư Lệnh
muốn tôi nói có thì phải báo trước cho tôi biết”.
Tôi nghĩ nguồn tin này do Đại tá Ngạc
báo cáo về Bộ Tư Lệnh Hải Quân nên Bộ Tư Lệnh Hải Quân muốn tôi trả lời phỏng
vấn cho phù hợp với nguồn tin. Cũng như Đại tá Ngạc báo cáo về Bộ Tư Lệnh Hải
Quân: HQ-10 và HQ-16 mất tích.
…………..
Sau khi trình bày chi tiết những gì xảy
ra trong trận Hoàng Sa, tôi xin nêu lên những nhận xét của tôi về trận chiến
này:
1. Trong trận Hải chiến Hoàng Sa, Hải
Quân Việt Nam không có loại tàu thích hợp cho trận chiến. HQ-5, HQ-16, HQ-10 là
loại tàu cồng kềnh, vận chuyển chậm, súng quay bằng tay nên theo dõi mục tiêu
khó khăn cũng như nhịp bắn chậm. Chỉ có HQ-4 là tối tân nhất, các súng đều sử
dụng bằng điện, tốc độ bắn nhanh, radar có tầm xa, vận tốc chiến hạm cao. Nhưng
HQ-4 lại không xung trận.
Lúc trước sở phòng vệ Duyên Hải ở Đà
Nẵng có loại tàu PT chuyên đi bắn phá phía bắc vĩ tuyến 17 là loại chiến hạm
thích hợp với trận chiến Hoàng Sa. Nhưng tôi nghe nói Hoa Kỳ đã thu hồi lại
loại tàu này khi họ rút quân khỏi Việt Nam, trước ngày trận chiến Hoàng Sa xảy
ra.
2. Không có kế hoạch hành quân. Kể từ
khi có mặt ở Hoàng Sa, tôi chỉ có biết một lệnh duy nhất từ Đại tá Ngạc qua máy
âm thoại, chỉ định tôi chỉ huy HQ-10 và có nhiệm vụ phải đổ bộ toán người nhái,
mà trong bài viết của ông, ông gọi là Biệt Đội Hải Kích, lên đảo Quang Hòa bằng
bất cứ giá nào. Ngoài ra tôi không biết gì về hoạt động của HQ-4 và HQ-5 cũng
như nhiệm vụ của họ.
Gần đây đọc bài “Tường Thuật Trận Hải
Chiến Lịch Sử Hoàng Sa” của Đại tá Ngạc, tôi mới biết là ông chia bốn chiến hạm
thành hai phân đoàn:
· Phân đoàn I gồm HQ-4 và HQ-5 (Đại tá
Ngạc ở trên HQ-5), do Hạm trưởng HQ-4 chỉ huy là nổ lực chính.
· Phân đoàn II gồm HQ-10 và HQ-16 do
Hạm trưởng HQ-16 chỉ huy là nổ lực phụ.
Nội việc chỉ định Hạm trưởng HQ-4 chỉ
huy Phân đoàn I là sai nguyên tắc chỉ huy, vì Đại tá Ngạc ở trên HQ-5, như vậy
thì Hạm trưởng HQ-4 (Trung tá Vũ Hữu San) chỉ huy luôn cả Đại tá Ngạc sao? Đại
tá Ngạc là người chỉ huy trận chiến thì phải kiêm luôn chỉ huy Phân đoàn I mới
đúng. Suốt trận chiến, HQ-4 và HQ-5 làm gì tôi không được biết. Và cho đến lúc
rời Hoàng Sa về Đà Nẵng, tôi chẳng thấy HQ-4 và HQ-5 đâu.
Sau trận chiến, tôi thấy phải đổi lại
Phân đoàn I (gồm HQ-4 và HQ-5) là nỗ lực phụ. Phân đoàn II (gồm HQ-10 và HQ-16)
mới đúng vì Phân đoàn II trực chiến với tàu Trung Cộng trong lòng chảo, trong
khi Phân đoàn I chỉ ở bên ngoài “wait and see”. Và vì quá lo sợ Trung Cộng nên
tin chắc thế nào Phân đoàn II cũng bị đánh chìm, Đại tá Ngạc mới ra lệnh HQ-5
bắn vào lòng chảo 5-7 phát trước khi rút lui. Tôi không trách HQ-4 và HQ-5 vì
họ chịu sự điều động của Đại tá Ngạc.
Vì không có kế hoạch hành quân nên máy
truyền tin bị Trung Cộng phá rối không liên lạc được mà không có tần số dự trù
thay thế.
3. Muốn thanh toán quân Trung Cộng trên
đảo (tôi nghĩ không nhiều, chừng một tiểu đội) mà dự định đổ bộ một toán người
nhái 9, 10 người thì khó mà thành công. Phải có 1, 2 tiểu đội Thủy Quân Lục
Chiến tăng cường yểm trợ mới được. Cần thêm xuồng cao su để đổ bộ quân, tiếp tế
lương thực, nước uống và vật dụng.
4. Ra lệnh đưa quân lên giữ đảo mà
không cung cấp lương thực, nước uống đầy đủ. Thủy thủ đoàn không có kinh nghiệm
tác chiến trên bộ, chỉ có súng cá nhân và một ít đạn bắn chừng nửa tiếng là
hết, làm sao giữ được đảo. Nếu chiến hạm bận tác chiến hay bị thiệt hại thì số
quân nhân đưa lên đảo phải bị bỏ rơi như trường hợp HQ-16. Đúng là lệnh lạc
kiểu mang con bỏ chợ. Phải có kế hoạch đưa Bộ binh hay Thủy Quân Lục Chiến giữ
đảo và phải có kế hoạch tiếp tế.
5. Không có bác sĩ trên chiến hạm, chỉ
có y tá không kinh nghiệm cứu thương cũng như ngoài khả năng của họ nên ai bị
thương thì khó mà sống sót.
6. Trận chiến Hoàng Sa rất giản dị,
chẳng có chiến thuật gì rắc rối, phức tạp cả. Tôi chỉ khai thác sơ hở của ba
chiến hạm Trung Cộng tập trung một chỗ trong lòng chảo để tấn công. Nếu thủy
thủ đoàn HQ-10 và HQ-16 có kinh nghiệm tác xạ, HQ-16 không bị trúng đạn của
HQ-5 và Hạm trưởng HQ-10 không bị thương thì chắc chắn ba tàu Trung Cộng phải
bị đánh chìm. Tôi còn nghi vấn về Hạm trưởng HQ-10 bị thương là do đạn thời chỉnh
của Trung Cộng hay của HQ-4, HQ-5 ?
7. Sau trận chiến, Bộ Tư Lệnh Hải Quân
hay ít nữa là Bộ Tư Lệnh Hạm Đội cần có một buổi hội gồm các cấp chỉ huy các
đơn vị tham dự trận chiến để mỗi người trình bày những hoạt động của đơn vị
mình, nói lên những nhận xét để rút kinh nghiệm học hỏi, cùng những đề nghị nếu
được áp dụng thì trận chiến sẽ có kết quả tốt hơn để mọi người cùng thảo luận.
Đằng này mọi chuyện đều cho trôi xuôi luôn.
No comments:
Post a Comment