Câu chuyện Thượng nghị sĩ Bob Kerry được đề cử làm Chủ tịch
Hội đồng Tín thác Đại học Fulbright (FUV) tại Việt Nam gây sóng gió trên báo
chí và mạng xã hội trong thời gian vừa qua.
Có thể nói việc đưa TNS B. Kerry vào vị trí như vậy trong bối
cảnh Việt Nam và Mỹ đang có nhiều tiến triển trong quan hệ giữa hai nước là được
coi một hành động ngoại giao sai lầm của phía Mỹ. Phải chăng Mỹ đang muốn kiểm
tra lời tuyên bố “bỏ qua quá khứ, hướng tới tương lai” của Việt Nam? Hay khi
các con bài đối ngoại đã được lật, phía Mỹ muốn chứng minh vẫn trên “cơ” của Việt
Nam, có thể ép buộc Việt Nam chấp nhận những điều khoản mà Mỹ đưa ra; cho dù những
điều khoản này gây thiệt hại, ảnh hưởng tới Việt Nam.
Như chúng ta đã biết, sau 1975, Mỹ tiến hành cấm vận Việt
Nam; đến 1995, Mỹ tiến hành dỡ bỏ một phần cấm vận, nối lại quan hệ ngoại giao
với Việt Nam. Đây không phải là “món quà quý báu” mà Mỹ dành cho Việt Nam như
không ít báo chí đã tung hô nhân dịp kỷ niệm 20 năm 2 nước nối lại quan hệ sau
chiến tranh. Mà sức ép bắt buộc chính phủ Mỹ PHẢI nối lại quan hệ với Việt Nam
chính từ lợi ích của các tập đoàn kinh tế Mỹ.
Khi Việt Nam tiến hành cải cách, mở cửa đón nhận các luồng đầu
tư của các quốc gia từ khắp thế giới thì các tập đoàn kinh tế Mỹ lại không thể
vào Việt Nam bởi hàng rào cấm vận do chính Mỹ dựng lên. Lúc đó, không ít các
báo chí của Mỹ và trên thế giới đều cho rằng Mỹ đã “tự bắn vào chân mình” bởi
trong lúc các tập đoàn kinh tế khác đánh giá Việt Nam là thị trường đầy tiềm
năng khu vực Đông Dương và nhảy vào khai thác thì các tập đoàn của Mỹ chỉ có thể
đứng từ xa mà ngó vào. Và vì lợi ích của chính những tập đoàn này khiến Mỹ phải
dỡ bỏ một phần cấm vận với Việt Nam.
Mỹ giữ lại cấm vận về vũ khí và chiêu bài “dân chủ - nhân
quyền” như là một lá bài để gây sức ép lên chính quyền Hà Nội. Những lá bài này
dần mất hiệu lực bởi Nga vẫn là một nhà cung cấp vũ khí hàng đầu mà Việt Nam lựa
chọn. Đồng thời Việt Nam chọn cách tiếp cận công nghệ vũ khí của các quốc gia
thân Mỹ như Isarel, Hà Lan, Ba Lan... Bên cạnh đó, xu hướng trang bị vũ khí đa
dạng nhằm bảo vệ chủ quyền biển đảo của Việt Nam khiến các nhà sản xuất vũ khí
Mỹ “đỏ con mắt”. Và vì lợi ích của những tập đoàn này, chính quyền Mỹ một lần nữa
phải dỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm mua bán vũ khí sát thương với Việt Nam. Lợi ích của
các tập đoàn Mỹ được đặt lên trên hết, cao hơn những mưu đồ của chính phủ Mỹ đối
với Việt Nam.
Khi những con bài đã được đặt xuống hết, thì việc đưa TNS B.
Kerry chỉ là tư thế nước lớn ép buộc nước nhỏ: “Tao nói mày phải nghe”; để chứng
minh vị thế của Mỹ đối với Việt Nam, bất chấp những đạo lý trong quan hệ ngoại
giao quốc tế.
Đền Yasukuni - Nhật Bản được coi là điểm nóng về ngoại giao
quốc tế. Địa điểm này gây tranh cãi không chỉ đối với các quốc gia từng bị đế
quốc Nhật xâm lược mà còn ngay trong nội bộ xã hội Nhật Bản bởi nơi đây thờ phụng
những người lính tử trận vì chiến đấu cho Thiên Hoàng; trong đó có cả những người
được coi là tội phạm chiến tranh. Các lần đến thăm đền của Thủ tướng Nhật Bản dù
với tư cách cá nhân hay nhà nước đều luôn dẫn đến căng thẳng về ngoại giao giữa
Nhật Bản với các quốc gia như Trung Quốc, Hàn Quốc, CH DCND Triều Tiên .... Thậm
chí tháng 10/2015 Bộ Ngoại giao Hàn Quốc
đã lên tiếng phản đối việc Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe gửi lễ cúng tiến tới
ngôi đền Yasukuni.
Nhắc đến đền
Yasukuni để đánh giá việc Mỹ đưa TNS B. Kerry trở thành Chủ tịch Hội đồng Tín
thác FUV nhạy cảm và gây căng thẳng cho ngoại giao giữa hai nước như thế nào và
để hiểu Mỹ đang giở chiêu trò gì đối với Việt Nam.
Quay trở lại với nhân vật chính trong câu chuyện.
Cho dù giải thích bằng bất cứ lý do gì thì hành động của đội
biệt kích SEAL mà ngài B. Kerry là đội trưởng ngày 25/2/1969 tại Khâu Băng (ấp Thạnh
Hóa, xã Thạnh Phong, Thạnh Phú, Bến Tre) vẫn là một tội ác chiến tranh. Sau 32
năm được che dấu dưới vinh quang của huân chương Sao Đồng (Bronze Star)
mà ngài B. Kerry nhận được sau chiến dịch này thì mặt trái của tấm huân chương
mới được lật ra.
Ngài B. Kerry luôn nói rằng ông ta “luôn bị ám ảnh” với vụ
việc trên suốt 32 năm. Tuy nhiên, có thật sự như vậy không hay ông ta vẫn treo
chiếc huân chương trên tường nhà như một bằng chứng về chiến tích của ông ta đã
tạo ra. Tôi nghĩ những lời nói “ân hận” của ông ta là hoàn toàn giả dối.
Tại sao, hơn 20 năm bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa
Việt Nam và Mỹ, B. Kerry không thể quay trở lại Khâu Băng nói một lời xin lỗi với
thân nhân những nạn nhân của mình mà chỉ gửi một lời xin lỗi chung chung tới
dân tộc Việt Nam? Người Việt Nam dễ tha thứ, cũng sẽ không có ai có hành động
gây thương tổn cho ông ta. Nhưng những người cần xin lỗi nhất thì ông ta lại không
trực tiếp đến để gặp mặt. Bản chất của ông ta vẫn né tránh sự thật. Né tránh
quá khứ độc ác của chính mình.
Sự hiện diện của B. Kerry tại Việt Nam với vai trò Chủ tịch
Hội đồng Tín thác FUV là sự hiện diện nỗi đau chiến tranh của con người Việt
Nam. Nỗi đau của một dân tộc muốn gác lại quá khứ đi để hướng tới tương lai
nhưng lại bị khơi lại, hiện diện trên chính mảnh đất quê hương mình. Tha thứ,
không phải là quên, không phải là để cho biểu tượng của cái ác tồn tại như là bằng
chứng cho sự hợp tác tốt đẹp giữa Việt Nam và Mỹ.
Chỉ số lòng tin giữa Mỹ và Việt Nam đang được Mỹ đặt lên bàn
cân bằng con bài ngoại giao B. Kerry chứng minh nỗi đau trong quá khứ của Mỹ
sau chiến tranh Việt Nam không dễ để người Mỹ vượt qua. Chứng minh nỗi sự nghi
ngờ mơ hồ của Mỹ về một Việt Nam muốn là bạn với Mỹ trên cơ sở tôn trọng lẫn
nhau, cùng có lợi.
Chỉ có vượt qua những nghi ngờ vậy, người Mỹ mới có thể chân
thành hợp tác với Việt Nam. Và phép thử B. Kerry, câu trả lời nằm ở chính người
Mỹ chứ không phải Việt Nam như người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam trả lời
báo chí: “…phía Mỹ và lãnh đạo ĐH Fulbright sẽ có quyết định đúng đắn, phù hợp
với xu thế phát triển quan hệ đang rất tốt đẹp giữa Việt Nam và Mỹ”.
No comments:
Post a Comment