NGƯỜI ANH CẢ, TỔNG TƯ LỆNH TỐI CAO QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
ĐÃ TỪ TRẦN VÀO LÚC 18h09 NGÀY 04/10/2013 TẠI VIỆN QUÂN Y 108
HƯỞNG THỌ 103 TUỔI
(25/8/1911 - 04/10/2013)
Đại tướng Võ Nguyên Giáp có tên khai sinh Võ Giáp, bí danh: Văn.
Đại tướng sinh ngày 25/8/1911
tại xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình.
Từ năm 1925 đến 1926, Đại tướng
tham gia phong trào học sinh ở Huế, năm 1927 tham gia Đảng Tân Việt cách mạng
(một tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Đông Dương, nay là Đảng Cộng sản Việt
Nam).
Năm 1930, Đại tướng bị địch bắt
và kết án hai năm tù. Sau khi ra tù, Đại tướng tiếp tục hoạt động tuyên truyền,
gây cơ sở cách mạng trong thanh niên, học sinh. Năm 1936, Đại tướng hoạt động
trong phong trào dân chủ bán hợp pháp của Đảng ở Hà Nội; là biên tập viên các
báo của Đảng: Báo Lao động, Báo Tiếng nói chúng ta, Báo Tiến lên, Thời báo Cờ
Giải phóng... Đại tướng được cử làm Chủ tịch Ủy ban Báo chí Bắc Kỳ.
Tháng 6/1940, Đại tướng được kết
nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương và được Đảng cử sang nước ngoài gặp lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc.
Năm 1941, Đại tướng về nước, tham
gia công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang ở căn cứ địa Cao-Bắc-Lạng.
Tháng 12/1944, Đại tướng được
đồng chí Nguyễn Ái Quốc giao nhiệm vụ thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải
phóng quân.
Tháng 4/1945, tại Hội nghị
Quân sự Bắc Kỳ, Đại tướng được cử vào Ủy ban Quân sự Bắc Kỳ. Từ tháng 5/1945, Đại
tướng là Tư lệnh các lực lượng vũ trang cách mạng mới, thống nhất thành Việt
Nam giải phóng quân; tháng 6/1945, Đại tướng được đồng chí Nguyễn Ái Quốc giao
nhiệm vụ thành lập Ủy ban Chỉ huy lâm thời Khu giải phóng.
Tháng 8/1945, Đại tướng được cử
vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc. Tại Đại hội
Quốc dân Tân Trào, Đại tướng được bầu vào Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam;
là Bộ trưởng Bộ Nội vụ trong Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
và được bổ sung vào Thường vụ Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Tháng 3/1946, Đại tướng là Chủ
tịch Quân sự, Ủy viên trong Chính phủ Liên hiệp; khi thành lập Quân ủy Trung
ương, được cử làm Bí thư Quân ủy Trung ương. Tháng 10/1946, là Bộ trưởng Bộ Quốc
phòng, được Chủ tịch Hồ Chí Minh ủy quyền làm Tổng Chỉ huy Quân đội Nhân dân và
Dân quân tự vệ Việt Nam. Tháng 1/1948, Đại tướng được phong quân hàm Đại tướng,
Tổng Tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Tháng 2/1951, tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng, Đại tướng được bầu làm Ủy viên Ban Chấp
hành Trung ương Đảng và được Ban Chấp hành Trung ương bầu vào Bộ Chính trị.
Từ tháng 9/1955 đến tháng
12/1979, Đại tướng là Phó Thủ tướng, kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Tháng 9/1960, tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng, Đại tướng được bầu lại vào Ban Chấp hành
Trung ương, được Ban Chấp hành Trung ương bầu vào Bộ Chính trị.
Tháng 12/1976, tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng, Đại tướng được bầu lại vào Ban Chấp hành
Trung ương, được Ban Chấp hành Trung ương bầu vào Bộ Chính trị.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ V và lần thứ VI của Đảng, Đại tướng được bầu lại vào Ban Chấp hành
Trung ương.
Từ tháng 1/1980, Đại tướng là
Phó Thủ tướng thường trực; từ tháng 4/1981 đến tháng 12/1986, là Phó Chủ tịch Hội
đồng Bộ trưởng (nay là Phó Thủ tướng Chính phủ).
Đại tướng liên tục được bầu
làm Đại biểu Quốc hội từ khóa I đến khóa VII.
Do công lao to lớn đối với sự
nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, uy tín lớn trong và ngoài nước, Đại tướng
đã được Đảng, Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao vàng, Huân chương Hồ Chí
Minh, Huy hiệu 70 năm tuổi Đảng và nhiều huân, huy chương cao quý khác của Việt
Nam và quốc tế./.
No comments:
Post a Comment